Trang bị của cataphract Cataphract

Giáp phục

Giáp cataphract Syria khoảng năm 1450-1550

Hầu hết các cataphract đều mang những loại giáp vảy cá, vừa đảm bảo sự linh hoạt để cả kị sĩ và ngựa chiến di chuyển thuận lợi, vừa đảm bảo đủ sức mạnh để chịu đựng chấn động mạnh khi đột phá vào đội hình bộ binh đối phương. Giáp vảy cá được tạo thành từ các mảnh kim loại dạng tròn hay ovan (bằng đồng hoặc sắt), có độ dày từ 4–6 mm, được đan với nhau bằng các sợi dây đồng xuyên qua 2-4 lỗ được đục mỗi mảnh, trước khi được cố định cả lớp vảy cá vào đồ lót thân ngựa (equestrian undergarment). Tổng trọng lượng của bộ giáp có thể lên đến 40 kg (khoảng 88 lbs, chưa kể cân nặng của kị sĩ). Ngoài ra, giáp lamellar cũng được dùng thay cho giáp toàn thân, trong khi ở một số khu vực, cataphract thường mặc giáp lưới.

Trong khi đó, giáp phục cho ngựa thường được kết nối từ nhiều bộ phận rời rạc, gồm những tấm kim loại dạng vảy cá được buộc xung quanh các bộ phận gồm cổ, vai, thân, eo của ngựa với nhau một cách độc lập, nhằm đảm bảo sự linh hoạt trong di chuyển của ngựa mà vẫn đảm bảo các tấm giáp không bị lỏng khi ngựa vận động ở cường độ cao. Thông thường, kị sĩ sẽ đội mũ bảo hộ che phủ đầu và cổ. Người Ba Tư thậm chí còn đội loại mũ có lớp kim loại che kín mặt, chỉ bố trí các khe hở rất nhỏ tại mũi và mắt, lần lượt để kị sĩ thở và quan sát. Sử gia Ammiamus Marcellinus đã ghi lại mô tả về cataphract Ba Tư khi đang phục vụ trong quân đội La Mã dưới triều đại hoàng đế Constantine II chống lại đế quốc Sassanid:

"...all the companies were clad in iron, and all parts of their bodies were covered with thick plates, so fitted that the stiff-joints conformed with those of their limbs; and the forms of human faces were so skillfully fitted to their heads, that since their entire body was covered with metal, arrows that fell upon them could lodge only where they could see a little through tiny openings opposite the pupil of the eye, or where through the tip of their nose they were able to get a little breath. Of these some, who were armed with pikes, stood so motionless that you would think them held fast by clamps of bronze.''

Vũ khí

Loại vũ khí phổ biến nhất của cataphract là thương. Loại thương này, được gọi theo tiếng Hy Lạp cổ là kontos (tiếng La-tinh contus, có nghĩa là ''mái chèo''), gần tương tự như thương sarissa của bộ binh phalanx Hy Lạp_một loại vũ khí chống kị binh hiệu quả, có chiều dài khoảng 4m, với mũi bằng sắt, đồng, hay xuơng thú, thường được cầm bằng cả hai tay. Hầu hết thương đều được buộc vào cổ và chân sau của ngựa chiến bằng những sợi xích nhỏ, nhằm tận dụng động năng lớn khi ngựa đang chạy nhằm bổ sung lực đẩy đến mục tiêu.

Phù điêu kị binh tại Firuzabad (Iran), mô tả cataphract đang chiến đấu bằng thương kontos

Ngoài ra, cataphract cũng được trang bị các vũ khí phụ như kiếm hoặc chùy để giao tranh giáp lá cà, Ở một số khu vực, cataphract không đuơc trang bị khiên, để có thể vác thương bằng cả hai tay. Cataphract Sassanid có thể mang cung hoặc rìu, làm tiêu hao đội hình đối phương trước khi mỗi đợt xung kích. củng cố nền tảng trường tồn của kị xạ trong truyền thống quân sự Ba Tư.